Điệp viên hai mang Michał Goleniewski

CIA tuyển mộ

Ngày 1 tháng 4 năm 1958, trong chuyến công tác Thụy Sĩ từ 24 tháng 3 đến 3 tháng 4, Goleniewski đã gửi một gói hàng cho đại sứ Hoa Kỳ tại Bern Henry J. Taylor, trong đó có hai bức thư, một là viết trực tiếp cho Taylor và hai là gửi Giám đốc FBI Edgar Hoover đề nghị được làm đặc vụ CIA, gửi kèm là một loạt tài liệu thông tin về hoạt động của các cơ quan tình báo Khối Đông Âu ở Châu Âu cũng như cách thức liên hệ lại.[57][58] Thư được ký bằng tên Đức "Heckenschütze" (tiếng Anh: Sniper - lính bắn tỉa) cho thấy người viết là sĩ quan tình báo cấp cao của một nước trong Khối Warszawa (không rõ nước cụ thể nào).[59] Không rõ chính xác nguyên nhân do đâu mà Goleniewski muốn hợp tác với Mỹ.[57] Sau khi Goleniewski qua đời, người vợ đầu Anna và con gái Halina cho biết ông làm vậy vì lý do ý thức hệ.[60] Tác giả Tim Tate cũng khẳng định không giống với những kẻ đào tẩu khác, bản thân Goleniewski không chấp nhận nổi hệ tư tưởng cộng sản.[61] Có ý kiến lại cho rằng Goleniewski quyết định mang người yêu Irmgard trốn sang phương Tây vì hậm hực cấp trên đã không cho phép mình ly hôn cưới vợ mới.[46]

Theo Ted Sheckley, trước đó vài tuần Goleniewski đã tìm cách liên lạc với lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Berlin.[42] Sĩ quan CIA Tennent H. Bagley cho biết lúc đầu người Mỹ nghi rằng đây là âm mưu của Liên Xô nên đã điều tra nghiên cứu rất kỹ gói hàng. Cuối cùng họ xác nhận đó không phải thư giả và thực sự gửi đến từ tình báo Ba Lan.[38] Lời đề nghị hợp tác của Goleniewski đã được chấp nhận, dấu hiệu trả lời là mẩu quảng cáo đăng trên tờ Frankfurter Allgemeine Zeitung. Heckenschütze bắt đầu trao đổi thư từ với CIA: Goleniewski gửi thư đến địa chỉ nhất định ở Tây Berlin, về sau thì thông qua "hộp thư chết" tại Warszawa.[62] Các tin từ CIA đều ký "Hoover" khiến Goleniewski tin rằng đang kết nối cá nhân với Hoover và thông tin mình gửi đến được với FBI.[59]

Về sau, khi phân tích nội dung thông tin nhận được, CIA đi đến kết luận rằng "Sniper" thực sự làm việc trong cơ quan tình báo Ba Lan. Hoạt động này được đặt mật danh "BE/Vision", CIA xem xét đánh giá về sau.[63][64] Nhờ tin tức Goleniewski cung cấp, tình báo Hoa Kỳ cuối cùng đã có được thông tin quan trọng không chỉ về các đặc vụ KGB và những nước Khối phía Đông, mà còn về sự tập trung quân Xô Viết tại Châu Âu.[65] CIA gọi Goleniewski là Sniper còn trong tài liệu của MI6 viết là Lavinia.[63][66]

Chỉ điểm

Tháng 4 năm 1959, Goleniewski cung cấp cho CIA ở châu Âu những thông tin đầu tiên về điệp viên Liên Xô, đó là hai sĩ quan tình báo cao cấp hoạt động ở Anh và chuyển thông tin tuyệt mật cho Liên Xô. Đặc vụ CIA Howard Roman liền thông báo cho người liên lạc tại New York là Walter Bell. Thông tin cho biết "Lambda 1" đã chuyển ít nhất ba tài liệu mật từ kho lưu trữ MI6,[67][68] còn "Lambda 2" từng làm việc trong Đại sứ quán Anh ở Ba Lan và được tuyển mộ năm 1952.[69] Lambda 1 nhanh chóng được xác định là sĩ quan cấp cao MI6, phó giám đốc điều hành kỹ thuật George Blake.[63][70] Tài liệu mật đầu tiên được Blake giao cho Moskva rồi chuyển tiếp tới mật vụ Ba Lan, trong đó có thông tin 26 công dân Ba Lan tiềm năng để MI6 có thể tuyển mộ khai thác; thứ hai là báo cáo kinh tế Ba Lan năm 1959; thứ ba là báo cáo ngắn về tình báo khoa học kỹ thuật của các cơ quan tình báo Anh.[71] Cũng nhờ Blake, Liên Xô nhận được thông tin về Chiến dịch Vàng nhằm đặt một đường hầm ngầm tới Đông Berlin và nỗ lực cắt đứt tuyến liên lạc của quân Liên Xô tại CHDC Đức.[46][72] Ngày 3 tháng 4 năm 1961, Blake đang công tác ở Liban thì bị gọi về Luân Đôn và bị bắt ngày 12 tháng 4 vì tội làm gián điệp cho Liên Xô.[73]

Quá trình điều tra tiếp tục nhận diện Lambda 2 là Harry Houghton (Huiton trong tin của Goleniewski), nhân viên Cục Vũ khí dưới nước Bộ Hải quân trên đảo Portland,[63] được Ba Lan tuyển mộ năm 1951 rồi tiếp tục cung cấp thông tin cho Liên Xô.[74] Điều tra cũng xác định Houghton kết hợp với với người tình là Ethel Gee:[75][76] hai người đã lấy cắp thông tin tuyệt mật của Hải quân Anh để chuyển cho Liên Xô.[77] Nhờ Goleniewski mách nước,[78] ngày 7 tháng 1 năm 1961,[79] Scotland Yard phá và bắt giữ các điệp viên trong Mạng lưới điệp báo Portland.[80][81][82]

Goleniewski báo thông tin quan trọng về những người nhập cư Ba Lan làm trong chính phủ Hoa Kỳ được tình báo Ba Lan tuyển mộ. Một trong số đó là nhân viên Bộ ngoại giao Edward Symans, di cư khỏi Ba Lan năm 1939 và từng làm việc tại nhiều đại sứ quán và lãnh sự quán khác nhau (bao gồm cả ở Berlin, Moskva, Vladivostok và Poznań). Khi ấy, ông cùng thư ký Dorota Cwynar đang công tác tại đại sứ quán Mỹ ở Warszawa. Cả hai bị bắt với tội danh gián điệp, nhưng kết quả thẩm vấn bằng máy phát hiện nói dối của FBI và điều tra của Tiểu ban An ninh Nội địa Thượng viện Hoa Kỳ đã dẫn việc bãi bỏ tất cả cáo buộc dành cho Symans và Cwynar.[83] Cwynar về sau đã chạy vào đại sứ quán Ba Lan xin tị nạn chính trị.[84] Một trường hợp khác cũng thường quy do Goleniewski khi nhân viên khác của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Ba Lan là Irvin Skarbek bị lật tẩy làm gián điệp. Trên thực tế, Skarbek bị lộ vì thư tố giác ẩn danh gửi đến đại sứ quán Mỹ.[85]

Tháng 3 năm 1959, Goleniewski báo cho CIA rằng có hai điệp viên Liên Xô trong hàng ngũ cơ quan tình báo Tây Đức BND (tiếng Đức: Bundesnachrichtendienst). Tin này bắt nguồn từ cuộc họp những người đứng đầu cơ quan phản gián các nước thuộc Hiệp ước Warszawa, người đứng đầu phái đoàn Liên Xô trưởng Tổng cục 2 KGB Oleg Mikhailovich Gribanov báo cáo rằng có 6 sĩ quan BND đã đến thăm trụ sở CIA năm 1956, hai trong số đó là điệp viên Liên Xô.[86] Một số nguồn tư liệu cho rằng từ phó cố vấn cấp cao của KGB tại Bộ Nội vụ Ba Lan Andrei Ivanovich Raina, Goleniewski đã lần ra được danh tính điệp viên Liên Xô trong BND là Heinz Felfe (hay còn gọi là "Hakke").[87] Nhưng không xác định được danh tính điệp viên còn lại. Một số tác giả cho rằng Goleniewski có mặt tại cuộc họp lãnh đạo phản gián. Tuy nhiên, thực tế là từ năm 1957, Goleniewski không hoạt động phản gián chính thức nên thông tin này còn gây tranh cãi.[27]

Goleniewski cũng chỉ điểm các điệp viên Liên Xô khác như: sĩ quan MI6 Kim Philby,[88] nhân viên tổ chức GehlenBND Hans Clemens ("Paul")[89] và Peter Fuhrmann ("Peter"),[90][91] luật sư Erwin Tiebel là bạn của Clemens[92] và mạng lưới đặc vụ KGB ở Karlhorst;[93] quan chức cấp cao Bộ Quốc phòng Israel và Cục phó Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu IDF Israel Beer ("Đồng chí Kurt"),[94] đại tá không quân Thụy Điển Stig Wennerström ("Đại bàng")[95] và một số nhân vật khác.[75][96] Trong thư ngày 25 tháng 1 năm 1960, Goleniewski cũng đã nhầm Jerzy Bryn là điệp viên Ba Lan. Bryn vống từng phục vụ tình báo quân đội rồi chuyển sang dân sự năm 1957. Năm 1959, Bryn là bí thư thứ nhất đại sứ quán Ba Lan ở Tokyo, cuối cùng chạy sang Hoa Kỳ. Về sau, Bryn cố thuyết phục chính quyền Ba Lan rằng CIA đã bắt cóc và tìm cách thuyết phục mình hợp tác.[97]

Từ tháng 1 đến tháng 4 năm 1961, do Goleniewski phản bội, tổng cộng 12 người bị bắt, 10 ở Mỹ và 2 ở Tây Đức.[98] Phương Tây cũng xác định được 240 đặc vụ tình báo Liên Xô hoặc những cơ quan tình báo thân Liên Xô. Hoa Kỳ mở khoảng 2000 vụ điều tra những người bị tình nghi làm gián điệp cho các cơ quan tình báo Khối phía Đông.[65] Không có bằng chứng nào cho thấy ngoài Goleniewski còn có nguồn nào khả dĩ hơn đã vạch trần số điệp viên nói trên (như trường hợp Beer và Wennerström).[99] Một số tác giả cho rằng Goleniewski cũng giúp vạch mặt trợ lý tùy viên Hải quân Anh tại Moskva là John Vassall.[59] Nhưng thực ra Vassall bị nhân viên KGB Anatoly Mikhailovich Golitsyn[85] ("Martel")[97] chỉ điểm sau khi đào tẩu đến Helsinki tháng 12 năm 1961. Golitsyn cũng xác nhận hầu hết các thông tin mà Goleniewski đã cung cấp cho tình báo phương Tây.[100]

Đánh giá thiệt hại

Từ tháng 4 năm 1958 đến tháng 12 năm 1960, Goleniewski gửi tổng cộng 14 bưu kiện chứa thư và thông tin mật cho CIA. Chỉ sau bưu kiện thứ hai hoặc thứ ba, người Mỹ mới gạt bỏ nghi ngờ rằng đây là một âm mưu và tin chắc vào độ xác thực của thông tin nhận được. Tất cả các thư đều viết bằng tiếng Đức: mỗi thư đều có phần chi tiết cụ thể về mật danh và dữ liệu hoạt động tình báo Liên Xô.[62] CIA ghi nhận thu được 5.000 tài liệu của tình báo Ba Lan và khoảng 800 tài liệu tình báo Liên Xô được giấu trong 160 vi phim.[101] Chính Goleniewski cho biết đã gửi tổng cộng 2.000 vi phim thông tin mật,[76][102] dù giấu danh tính và thông tin cá nhân thật những vẫn nhận được phần thưởng hậu hĩnh;[38] 160 tài liệu đánh máy thông tin chung và 5.000 trang thông tin tuyệt mật (hệ thống vệ tinh trinh sát của Liên Xô; thông tin điệp viên PPR và CHDC Đức ở Tây Âu và Hoa Kỳ; thông tin quân sự, kinh tế, chính trị và khoa học, không lưu).[65] Hoa Kỳ cũng được báo về việc nghe lén Đại sứ quán Mỹ ở Warszawa và nhà các nhân viên ngoại giao Mỹ tại Ba Lan.[85][103]

Goleniewski làm tê liệt hoàn toàn công việc của Cục 4 (đảm nhiệm tình báo ở Pháp, Ý, Thụy Sĩ, Bỉ, Hà Lan và Vatican) Tổng cục 1 Bộ Nội vụ PPR, vì Ba Lan không xác định nổi kẻ phản bội sau những thông tin bị Goleniewski bán cho CIA. Theo CIA, tất cả điệp viên Ba Lan đều được lệnh dừng mọi nhiệm vụ ngay lập tứ. Về sau mới biết Goleniewski đã bán đứng 31 sĩ quan tình báo PPR, một số sau đó cũng được CIA tuyển mộ, đồng thời ông cũng gửi thông tin 26 quan chức Ba Lan tiềm năng để Anh khai thác tuyển mộ.[63] Ước tính số lượng về nguồn tin Goleniewski lấy được khác nhau: Tổng cục I Bộ Nội vụ (tình báo nước ngoài) cho rằng ông nắm được 90% sĩ quan tình báo làm việc ở Ba Lan và nước ngoài, đa số ông biết hết những người này chỉ trừ một số đặc vụ trẻ. Cục 2 Bộ Nội vụ (phản gián) cho rằng Goleniewsk biết khoảng 70 người, một nửa trong số đó công tác tại nước ngoài. Theo ước tính sau này, Goleniewski có thể biết ít nhất 92 đặc vụ và 131 nhân viên các đơn vị khác, cũng như khoảng 40 hoạt động mà họ tham gia. Hiện chưa xác định được số lượng chính xác nhưng Goleniewski được cho là có thể biết hết tất cả vụ mình tham gia và những đặc vụ đã liên hệ.[16][104] Theo đại tá Witold Sienkiewicz, việc Goleniewski phản bội gây ra thiệt hại nghiêm trọng hơn nhiều cho tình báo Ba Lan so với trường hợp cựu cục phó Cục 10 Bộ Công an trung tá Jozef Sviatlo đào tẩu sang Tây Berlin sau cái chết của Stalin năm 1953.[105]

Khoảng 80% thông tin dựa trên các báo cáo của Goleniewski về Liên Xô và Ba Lan đã được tiến hành phân loại.[65] Theo Goleniewski, Cục 6 nhận được nhiều tài liệu kỹ thuật cơ khí, luyện kim, điện tử, hóa học, vũ khí và năng lượng hạt nhân trong những năm 1957-1960. Ông cũng cung cấp cả danh sách thanh tra Cục 6 tham gia nghiên cứu tài liệu nhận được.[106] Thông tin bao gồm cả hợp tác tình báo giữa Bộ Nội vụ với nhiều bộ và cơ quan Ba Lan khác.[60] Trước khi đào tẩu, Goleniewski giấu các bản sao tài liệu dưới một cái cây tại Warszawa và báo lại cho CIA.[107] Tòa án quân sự Quân khu Warszawa cũng đưa ra cáo trạng Goleniewski biển thủ số tiền lớn trong quá trình công tác. Năm 1958-1960, ông lấy 550 đô la Mỹ và 200 bảng Anh bằng cách dùng biên lai giả để chuyển cho đặc vụ Tadeusz Saks.[108] Từ ngày 27 tháng 12 năm 1960 đến ngày 4 tháng 1 năm 1961, ông chiếm đoạt khoản thưởng 16.300 mark Tây Đức, 300 đô la Mỹ và 600 mark Đông Đức[4] (11.300 mark Tây Đức bằng tiền mặt của Bộ Nội vụ PPR trước khi rời Berlin).[109] Ông đã chuyển tất cả số tiền này vào tài khoản của Irmgard, Stasi lại không nhận ra điều đáng ngờ này khi thực tế Irmgard chỉ kiếm được 300 mark một tháng, không thể có số tiền lớn như vậy cũng như đủ khả năng chi trả các đồ xa xỉ trang sức đắt tiền khác[38] mà Goleniewski đã tặng.[110]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Michał Goleniewski https://web.archive.org/web/20191222112147/https:/... https://katalog.bip.ipn.gov.pl/informacje/69047 https://web.archive.org/web/20221005143530/https:/... https://www.theguardian.com/world/2021/may/23/spy-... https://web.archive.org/web/20201226133552/https:/... https://www.telegraph.co.uk/obituaries/2020/12/26/... https://web.archive.org/web/20200903003232/https:/... https://www.telegraph.co.uk/books/non-fiction/ethe... https://web.archive.org/web/20220331133705/http://... https://web.archive.org/web/20170123123210/https:/...